Thời gian qua, hoạt động tiếp xúc cử tri có những chuyển biến rõ nét cả về phương thức lẫn chất lượng từ việc  xây dựng kế hoạch định kỳ, tổ chức tiếp xúc theo chuyên đề, theo nhóm đối tượng, đồng thời mở rộng các kênh ghi nhận kiến nghị trực tuyến bên cạnh hình thức gặp gỡ trực tiếp. Cách làm này góp phần đưa tiếng nói của cử tri phản ánh sinh động thực tiễn xã hội, đi thẳng tới nghị trường, nâng cao tốc độ và hiệu quả xử lý.

Việc lắng nghe ý kiến Nhân dân được gắn với cơ chế theo dõi, giám sát cụ thể. Các nhóm vấn đề được phân loại rõ ràng theo thẩm quyền; mỗi kiến nghị đều được nghiên cứu, công khai tiến độ và kết quả giải quyết. Điều đó khẳng định trách nhiệm của Quốc hội trong việc ghi nhận và đồng hành, chuyển hóa ý kiến cử tri thành hành động và chính sách cụ thể.

Song song với đó, sự phối hợp liên thông giữa Đoàn đại biểu Quốc hội, chính quyền địa phương và các bộ, ngành nhằm bảo đảm ý kiến cử tri được chuyển tải đúng đối tượng, được đối thoại, phản hồi và giải quyết kịp thời. Đây vừa là sự tiếp nối truyền thống gắn bó máu thịt giữa Quốc hội với Nhân dân, vừa là bước tiến quan trọng trong việc phát huy dân chủ, củng cố niềm tin xã hội và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

Nguồn cội của mọi quyền lực là Nhân dân – nơi khởi phát niềm tin, ý chí và cũng là điểm đến cuối cùng của mọi chính sách. Lá phiếu của người dân không kết thúc trong ngày bầu cử. Sau giờ phút lựa chọn đại biểu, quyền lực của cử tri tiếp tục đi cùng Quốc hội qua các kênh lắng nghe, phản ánh, giám sát và quyết sách.

Bằng hiểu biết chuyên môn và trải nghiệm thực tiễn, Đại biểu Quốc hội chính là “bộ lọc” đầu tiên, giúp chuyển hóa những phản ánh đa dạng của cử tri thành vấn đề chính sách. Kết quả lập pháp thời gian qua cho thấy độ mở của Quốc hội trước các kiến nghị hợp lý, hợp pháp và hợp thực tiễn.

Giữa bối cảnh đất nước đang đứng trước ngưỡng cửa lịch sử, bước vào giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi cải cách thể chế phải đi trước một bước, thì Quốc hội đã làm xuất sắc vai trò trọng yếu của mình, đổi mới tư duy lập pháp, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, để thể chế trở thành lợi thế cạnh tranh của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Kết quả Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV là minh chứng rõ nét cho sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân, phản ánh yêu cầu khách quan của thực tiễn phát triển đất nước. Tại kỳ họp này, Quốc hội đã thông qua 34 luật, 34 nghị quyết và cho ý kiến lần đầu đối với 6 dự án luật.

Khối lượng lớn văn bản được ban hành trong một kỳ họp, cùng việc thảo luận, góp ý nhiều dự án luật ngay từ lần đầu tiên, cho thấy tinh thần đổi mới, chủ động và quyết liệt của Quốc hội trong việc lắng nghe ý kiến nhân dân, kịp thời thể chế hóa để đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của cuộc sống.

ky-2-hanh-trinh-lang-nghe-tu-doi-song-khoi-dau-cua-mot-chinh-sach-vi-dan (13)

Các quyết sách, đạo luật được thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV có tính cách mạng, khởi đầu cho những cải cách thể chế một cách căn cơ, định hướng những nhiệm vụ cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Đơn cử như, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2006 (Luật số 68/2006/QH11) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 – là một bước tiến quan trọng đối với môi trường kinh doanh của Việt Nam.

Sau 17 năm, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật đã đưa hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được nâng lên cả chất và lượng. Dù vậy, thực tiễn thi hành luật thời gian qua cũng cho thấy Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật đã phát sinh một số hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải sửa đổi.

Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại Công nghiệp Việt Nam – VCCI tháng 2/2025, các vấn đề khó khăn được doanh nghiệp chỉ ra như: Tình trạng doanh nghiệp là đối tượng chịu tác động không được thông báo vẫn diễn ra; Bắt buộc đo kiểm lại theo quy chuẩn Việt Nam dù sản phẩm đã đáp ứng đối với tiêu chuẩn quốc tế tương đương; Có quy chuẩn ban hành xong mà không có đơn vị đánh giá sự phù hợp, hoặc có nhưng không đủ công suất; Quy chuẩn thay đổi quá nhanh, thường áp dụng thời hạn có hiệu lực tối thiểu 45 ngày khiến doanh nghiệp khó đáp ứng;…. gây khó khăn, ách tắc cho hoạt động của doanh nghiệp.

Từ tiếng nói của doanh nghiệp, qua sự lắng nghe và thấu hiểu của Đại biểu, những “nỗi đau” được đưa vào tranh luận, thảo luận tại nghị trường Quốc hội, cuối cùng kết tinh thành luật pháp. Với 432/448 tổng số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 96,42%, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật chính thức được Quốc hội thông qua vào sáng ngày 14/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9.

Đây là một dấu mốc quan trọng với nhiều điểm đổi mới có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc: từ việc xây dựng Chiến lược tiêu chuẩn quốc gia, tăng cường vai trò của doanh nghiệp và xã hội, khắc phục chồng chéo trong hệ thống pháp luật, đến thúc đẩy số hóa quy trình và mở rộng hợp tác quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam. 

Luật sửa đổi này đánh dấu bước tiến quan trọng trong hoàn thiện thể chế, định hình “hạ tầng mềm” cho phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số. Luật sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2026, với kỳ vọng kiến tạo một hệ thống tiêu chuẩn hiện đại, hội nhập, hỗ trợ hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp và nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/7/2025 với tinh thần trọng tâm là tháo gỡ rào cản thể chế, thúc đẩy quản trị minh bạch, tạo thuận lợi cho khu vực tư nhân công nghệ cao. Việc cập nhật khái niệm, chuẩn mực báo cáo, cơ chế đăng ký – thông báo điện tử… góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp kỹ thuật công nghiệp bứt phá.

Đánh giá cao những điểm đổi mới trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp, đại diện Lãnh đạo Hiệp hội Thang máy Việt nhấn mạnh: Đây là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường minh bạch, bảo đảm công bằng, đồng thời mở ra không gian cho đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững của cộng đồng doanh nghiệp. 

Hiệp hội cam kết đồng hành cùng các doanh nghiệp hội viên trong quá trình rà soát, điều chỉnh hoạt động phù hợp với quy định mới, hỗ trợ việc tiếp cận và áp dụng hiệu quả pháp luật, qua đó tạo động lực đột phá để phát huy mạnh mẽ vai trò của kinh tế tư nhân, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, lá phiếu của cử tri không dừng lại ở biểu hiện niềm tin, mà chính là sự ủy thác trách nhiệm. Quốc hội khóa XV đã nỗ lực không ngừng để hiện thực hóa trách nhiệm ấy, đưa tiếng nói của Nhân dân từ cuộc sống vào nghị trường và từ nghị trường trở lại cuộc sống qua luật pháp, chính sách.

Những phiên chất vấn, giám sát tối cao được tổ chức công khai, trực tiếp, minh bạch, cho thấy Quốc hội sẵn sàng đặt mình trong sự giám sát của nhân dân. Mỗi câu hỏi của đại biểu là lời cam kết về trách nhiệm giải trình. Từ cải cách chính sách đất đai, cắt bỏ thủ tục phiền hà cho doanh nghiệp, đến điều chỉnh quy định về an sinh, y tế, giáo dục… tất cả đều nhằm mục tiêu không một người dân nào bị bỏ lại phía sau.

Sức mạnh của Quốc hội khóa XV vì thế không chỉ nằm ở con số các luật được thông qua, mà ở chỗ những luật ấy phản ánh trung thực hơi thở cuộc sống, trở thành công cụ hữu hiệu để quản trị xã hội, thúc đẩy phát triển, bảo vệ quyền lợi chính đáng của Nhân dân.

Hiến pháp năm 1992 và 2013 đã xác định các mục tiêu to lớn và khát vọng của Việt Nam, đó là “dân giàu, nước mạnh”. Chính phủ yêu cầu xây dựng Kế hoạch 5 năm 2026-2030 theo hướng đột phá, sáng tạo, bảo đảm tăng trưởng nhanh, bền vững, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu GDP bình quân đạt 10%/năm trở lên.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII cũng xác định đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 là nước phát triển, thu nhập cao, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Thời điểm tháng 10/2025, theo dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đến năm 2030, quy mô kinh tế Việt Nam sẽ đạt 666,5 tỷ USD. (Nguồn: IMF Data Mapper)

Để đạt được mục tiêu ấy, Quốc hội khóa XV và các khóa tiếp theo gánh vác trọng trách lịch sử: Kiến tạo nền tảng pháp lý, thể chế và chính sách cho quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa gắn với tri thức và đổi mới sáng tạo. Mỗi chính sách được ban hành không chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt, mà còn phải định hình cho sự phát triển lâu dài, bảo đảm hài hòa lợi ích quốc gia, cộng đồng và từng người dân.

Quốc hội kiến tạo tương lai không phải bằng những khẩu hiệu, mà bằng hành động cụ thể: luật pháp tiến bộ, giám sát hiệu quả, quyết sách đúng đắn, luôn đặt lợi ích quốc gia – dân tộc và hạnh phúc của Nhân dân lên hàng đầu. Đó là sự đồng hành thiết thực, là điểm tựa để dân tộc Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới, khẳng định vị thế trên bản đồ thế giới.

Đúng như Báo cáo công tác nhiệm kỳ khoá XV của Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trình bày tại Khai mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI là dấu mốc quan trọng trên chặng đường phát triển mới của đất nước, có ý nghĩa định hướng tương lai, bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam. Tình hình trên đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ rất lớn đối với công tác của Quốc hội, đặc biệt là nhiệm vụ hoàn thiện thể chế với yêu cầu “Biến cải cách thể chế thành lợi thế cạnh tranh, thành động lực phát triển”.

Và như vậy, những thành tựu của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV chính là nền tảng quan trọng, tạo đà để Quốc hội tiếp tục đổi mới tư duy, phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả thực chất, giảm tính hình thức, và khẳng định vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất – đại diện của ý chí và nguyện vọng của Nhân dân.

Nhóm tác giả: Trịnh Lệ, Lê Trang, Trịnh Kim San

Ngày 28/10/2025 - 16:52