Trải qua gần 80 năm hình thành và phát triển, Quốc hội Việt Nam luôn là biểu tượng của ý chí, trí tuệ và khát vọng vươn lên của dân tộc. Mỗi giai đoạn lịch sử đều in dấu những quyết sách mang tầm vóc thời đại, phản ánh tinh thần “lấy dân làm gốc” và khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng.

Việt Nam trải qua một hành trình phát triển đặc biệt với 80 năm độc lập, trong đó có tới 30 năm chiến đấu, hy sinh; và 40 năm bứt phá, hội nhập. Mỗi chặng đường đã đi qua đều là minh chứng cho sức sống, nghị lực và khát vọng vươn lên của toàn dân tộc. Trên hành trình ấy, Quốc hội luôn là tiếng nói đại diện cho Nhân dân, đồng hành trong những quyết định mang tính bước ngoặt.

Từ Hiến pháp năm 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập – đến các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013, cùng những lần sửa đổi quan trọng vào năm 2001 và 2025, đó là cả một hành trình không ngừng “cởi trói” tư duy, làm mới cách nghĩ, cách làm trong quản trị quốc gia. Mỗi bản Hiến pháp không chỉ là khung pháp lý nền tảng, mà còn là tuyên ngôn chính trị mạnh mẽ về tinh thần đổi mới và khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường – và trên hết, đó là lời cam kết thiêng liêng về một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân – nơi ý chí, quyền lực và lợi ích của Nhân dân được đặt ở vị trí trung tâm.

Năm 1986, Đại hội VI của Đảng khởi xướng, lãnh đạo sự nghiệp Đổi mới và Việt Nam đã tạo nên một trong những câu chuyện phát triển ấn tượng nhất thế giới. Sau gần 40 năm, quy mô kinh tế nước ta đã tăng gần 106 lần, đạt 476,3 tỷ USD vào năm 2024, đứng thứ 33 thế giới. GDP bình quân đầu người cũng tăng hơn 63 lần, lên mức 4.700 USD. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1987-2024 đạt 6,67%/năm, đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia tăng trưởng cao của khu vực và thế giới.

Cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch mạnh mẽ. Năm 1986, khu vực nông – lâm – thủy sản chiếm tới 36,76% GDP, đến năm 2024 chỉ còn 11,86%; công nghiệp – xây dựng và dịch vụ chiếm lần lượt 37,64% và 42,36%.

Luật Doanh nghiệp 1999 – một trong những chấm son trên hành trình Đổi mới từ năm 1989 của dân tộc. Sau rất nhiều phiên thảo luận kỹ càng từng câu, từng chữ với 266 ý kiến tranh luận trên hội trường và 288 ý kiến phát biểu ở các đoàn đại biểu, Luật Doanh nghiệp 1999 đã được Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2000. Quyết định ấy đã mở đường cho hàng vạn doanh nghiệp tư nhân ra đời, tạo nên làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ đầu những năm 2000.

Điều 6 của Luật Doanh nghiệp 1999 đã bãi bỏ quyền quyết định của chủ tịch tỉnh, thành phố về thành lập doanh nghiệp, khẳng định công dân có quyền đăng ký thành lập doanh nghiệp và kinh doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm; chỉ quy định những đối tượng không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp. Đây được xem là bước tiến quan trọng trong việc thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân được xác định trong Hiến pháp.

Trong bước tiến ấy, ngành thang máy cũng phản chiếu rõ nét tinh thần hội nhập: từ nhập khẩu toàn bộ đến nội địa hóa từng phần, từ làm thuê cho thương hiệu nước ngoài đến xây dựng thương hiệu Việt, từ 18 đơn vị được cấp giấy phép chế tạo, lắp đặt, bảo trì thang máy vào năm 1996 đến nay đã có hơn 1.600 doanh nghiệp có đăng ký sản xuất, lắp đặt, bảo trì.

Không chỉ mở đường cho doanh nghiệp, nghị trường Quốc hội còn đặt nền móng pháp lý cho sự phát triển, quản lý sản phẩm, chất lượng của những ngành đặc thù như thang máy.

Ngày 29/6/2006, Quốc hội ban hành Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và ngày 21/11/2007, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa ra đời. Đây được coi là hai Luật gốc, quy định các vấn đề chung, mang tính nguyên tắc về chất lượng sản phẩm, hàng hóa cho mọi ngành, lĩnh vực, trong đó có thang máy. Tất cả đều được Quốc hội thảo luận, ban hành và giám sát thực thi, tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý chất lượng, kiểm định và đảm bảo an toàn thang máy trong thực tiễn.

Từ chỗ hoàn toàn phụ thuộc vào thiết bị nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam ngày nay đã có thể sản xuất một số linh kiện, thậm chí phát triển thang máy thương hiệu nội địa, tham gia cung ứng cho nhiều công trình trong nước. Thành quả này có được không chỉ nhờ nỗ lực của giới doanh nghiệp mà còn nhờ khung khổ pháp lý được Quốc hội từng bước hoàn thiện, tạo niềm tin cho thị trường, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh.

Có thể nói, sự phát triển của ngành thang máy chính là minh chứng cụ thể cho cách mà lá phiếu cử tri – thông qua nghị trường – đã được chuyển hóa thành luật pháp, chính sách, rồi lan tỏa thành động lực tăng trưởng trong một ngành công nghiệp vốn tưởng chừng nhỏ bé nhưng lại có ý nghĩa chiến lược đối với đô thị hóa, hạ tầng và đời sống hiện đại của người dân. Và như thế, Nghị trường đã trở thành nơi hội tụ ý chí Nhân dân, nơi pháp luật được chưng cất từ thực tiễn và cũng là nơi hun đúc khát vọng vươn lên của dân tộc.

Năm 2025 – cột mốc 80 năm xây dựng và phát triển đất nước không chỉ là dịp để chúng ta nhìn lại những thành tựu đã đạt được trên hành trình gian nan nhưng đầy vinh quang của dân tộc. Quan trọng hơn, đây là thời khắc để mỗi người Việt Nam cùng tự hỏi: Trong 20 – 30 năm tới, chúng ta muốn đất nước mình đi về đâu? 

Một Việt Nam thịnh vượng, sáng tạo và hùng cường chỉ có thể hình thành khi chúng ta đủ bản lĩnh và dũng khí tháo gỡ tận gốc những “điểm nghẽn” về thể chế, khơi thông mọi nguồn lực, để người dân và doanh nghiệp thật sự được tự do sáng tạo, cống hiến và phát triển. Đó không chỉ là yêu cầu của hiện tại, mà là mệnh lệnh của tương lai, từ khát vọng vươn lên của một dân tộc từng trải qua chiến tranh, nghèo đói nhưng chưa bao giờ khuất phục. Chỉ khi dám đổi mới tư duy, dám hành động vì lợi ích lâu dài của quốc gia – dân tộc, chúng ta mới có thể mở ra kỷ nguyên phát triển mới, hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 – đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm thành lập nước.

Bản lĩnh trong giai đoạn bản lề

Trong dòng chảy phát triển mạnh mẽ của đất nước và thế giới, Quốc hội khóa XV tiếp tục khẳng định tầm vóc của Quốc hội hành động, kiến tạo, vì dân và vì nước, vững vàng giữa đại dịch COVID-19, biến động địa chính trị và những thách thức hội nhập, phát triển bền vững chưa từng có tiền lệ.

Thực tiễn đã chứng minh, với những quyết sách mạnh mẽ, Quốc hội khóa XV (2021-2026) đã nhanh chóng thể hiện bản lĩnh của một thiết chế chính trị kịp thời và quyết đoán. Việc ban hành gói hỗ trợ an sinh xã hội hàng chục nghìn tỷ đồng đã kịp thời giúp hàng triệu lao động, doanh nghiệp vượt qua khó khăn; chính sách tài khóa – tiền tệ linh hoạt đã tạo dư địa duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.

Đặc biệt, Nghị quyết 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội đã khơi thông nguồn lực, đưa nền kinh tế từ suy giảm trở lại quỹ đạo tăng trưởng, đóng góp vào mức tăng GDP trên 8% năm 2022 – con số cao nhất trong hơn một thập kỷ.

Những dấu ấn kinh tế ấn tượng - Khẳng định bản lĩnh và năng lực điều hành

Nhìn lại chặng đường đã qua của Quốc hội khóa XV, trên bình diện kinh tế, Việt Nam đã ghi dấu nhiều bước tiến ấn tượng, bất chấp những thử thách cam go chưa có trong tiền lệ của đại dịch COVID-19. Quy mô GDP từ 346 tỷ USD năm 2020 dự kiến sẽ chạm mốc 510 tỷ USD vào năm 2025, đưa nước ta lên vị trí thứ 32 toàn cầu và đứng thứ 4 trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người dự kiến tăng từ 3.552 USD lên khoảng 5.000 USD, trong khi thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người cũng sẽ vượt ngưỡng trung bình thấp, mở ra một nấc thang phát triển mới.

Chỉ trong 9 tháng đầu năm 2025, bất chấp những biến động phức tạp của kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam vẫn ước tăng 7,84% – minh chứng rõ nét cho sức chống chịu và khả năng phục hồi bền bỉ của nền kinh tế.

Cùng với đà tăng trưởng kinh tế, hạ tầng chiến lược được đầu tư mạnh mẽ với loạt dự án trọng điểm như đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, sân bay Long Thành, tuyến Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ, các dự án điện hạt nhân… Cùng với đó là 250 công trình lớn khởi công, khánh thành trên quy mô cả nước với tổng vốn gần 1,3 triệu tỷ đồng – minh chứng cho tầm nhìn dài hạn và quyết tâm phát triển bền vững.

Các quốc gia thành công, vươn lên nhóm thu nhập cao đều có điểm chung: một hệ thống thể chế hiệu quả, minh bạch và có trách nhiệm giải trình cao. Trong bối cảnh đó, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV được xem là dấu mốc có ý nghĩa lịch sử, khi thực hiện bước đột phá mạnh mẽ về thể chế thông qua việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 và ban hành Nghị quyết về tái cấu trúc địa giới hành chính cấp tỉnh.

Những quyết sách ấy không chỉ mang ý nghĩa pháp lý đơn thuần, mà còn là tuyên ngôn chính trị mạnh mẽ về tinh thần đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích quốc gia – dân tộc, đặt nền móng cho khát vọng đưa Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, tự tin bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

Hiến pháp, đạo luật gốc của quốc gia, không chỉ là khung pháp lý mà còn là biểu tượng của ý chí nhân dân và bản sắc chính trị. Việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ tinh thần cải cách thể chế, khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước: Phát triển phải bắt nguồn từ nền tảng lập hiến hiện đại, linh hoạt và hiệu quả. Với hơn 280 triệu lượt ý kiến đóng góp, đạt tỷ lệ tán thành 99,75%. Hiến pháp thật sự trở thành một văn bản “của dân, do dân và vì dân”.

Đặc biệt, sau nhiều năm chuẩn bị, hệ thống chính trị được tái cấu trúc theo mô hình ba cấp: Trung ương – Tỉnh/Thành phố – Xã/Phường. Bộ máy tinh gọn hơn, rõ người rõ việc, phân công – phân cấp – phân quyền rành mạch, gần dân và sát dân hơn, tạo ra không gian phát triển mới, mở ra cơ hội và động lực cho mục tiêu “cất cánh” của dân tộc.

Quốc hội - Chủ động kiến tạo về thể chế, tiên phong hành động vì Nhân dân

Phát huy vai trò “đi trước một bước về thể chế”, Quốc hội không chỉ dừng lại ở những giải pháp ngắn hạn nhằm ứng phó với thách thức trước mắt, mà còn chủ động kiến tạo nền tảng cho các cải cách mang tính chiến lược và lâu dài. Từ việc thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đến việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý nhà nước, mọi quyết sách đều hướng tới mục tiêu chung: xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện đại, kiến tạo phát triển, phục vụ Nhân dân, qua đó củng cố niềm tin và khơi dậy mạnh mẽ khát vọng vươn lên của dân tộc.

Trong từng quyết định, dấu ấn xuyên suốt chính là tinh thần vì dân, dựa vào dân và lắng nghe dân thông qua việc mở rộng kênh tiếp xúc cử tri đến việc giám sát các lĩnh vực nóng như y tế, giáo dục, đất đai, phòng chống tham nhũng, lãng phí… Mỗi chính sách được ban hành đều đặt người dân và doanh nghiệp ở vị trí trung tâm, hướng tới tháo gỡ rào cản, khơi thông sức sản xuất và khai thác hiệu quả mọi nguồn lực để phục vụ cho sự phát triển của đất nước.

Mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ và đầu tư công đang dần chạm ngưỡng. Trong kỷ nguyên mới, khi nền kinh tế toàn cầu chuyển dịch sang hướng sáng tạo, số hóa, xanh và hội nhập sâu rộng, yêu cầu đặt ra là thể chế phải được tái cấu trúc – linh hoạt hơn, minh bạch hơn và phản ứng chính sách nhanh hơn. 

Năm 2025 là năm cuối của nhiệm kỳ, kết quả thực hiện kinh tế – xã hội năm 2025 đóng góp quan trọng và hoàn thành kế hoạch kinh tế – xã hội giai đoạn 2021- 2026, tạo tiền đề để đất nước phát triển vào giai đoạn mới. Có thể nói, Quốc hội khóa XV đã định vị rõ tầm vóc không chỉ nằm ở quy mô quyền lực mà ở khả năng chuyển hóa quyền lực ấy thành niềm tin xã hội, hiệu quả thực tiễn và hành động cụ thể.

Nhóm tác giả: Trịnh Lệ, Lê Trang, Trịnh Kim San