TCTM – Ngành thang máy Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với hơn 20.000 chiếc được lắp đặt trong năm 2024, và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong tương lai gần. Dù vậy, ông Nguyễn Huy Tiến, Tổng Thư ký Hiệp hội Thang máy Việt Nam, nhấn mạnh nếu không triển khai một mô hình quản trị an toàn thang máy toàn diện, ngành có thể đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng về con người và tài sản trong thời gian tới.
Trong vài năm gần đây, song hành cùng quá trình đô thị hóa nhanh chóng của đất nước, ngành thang máy tại Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc. Sự bùng nổ này được thúc đẩy bởi các dự án xây dựng hạ tầng, từ khu căn hộ chung cư cho đến văn phòng, trung tâm thương mại, đặc biệt là công trình nhà riêng.
Chẳng hạn như trong năm 2024 vừa qua, dù nền kinh tế nhiều khó khăn, ngành thang máy Việt Nam vẫn đạt con số ấn tượng với hơn 20.000 thang máy được lắp đặt. Nhiều doanh nghiệp chia sẻ quá tải về sản xuất và lắp đặt vào dịp cuối năm, do có quá nhiều công trình nhưng lại thiếu nhân lực thực hiện.
Tính đến năm 2024, cả nước có khoảng hơn 400.000 thang máy đang hoạt động. Dự báo tới năm 2045, con số này sẽ đạt 1 triệu thang máy, tức nhu cầu trung bình mỗi năm sẽ rơi khoảng 35.000 – 40.000 thang/năm, bao gồm cả thay thế thang máy cũ.
Chia sẻ về những con số lạc quan của ngành thang máy Việt, dù vậy ông Nguyễn Huy Tiến – Tổng Thư ký VNEA vẫn bày tỏ quan ngại về vấn đề phát triển quá nhanh của ngành.
“Ngành thang máy Việt Nam đang trong giai đoạn “phát triển nóng”, tức gia tăng rất nhanh về số lượng, nhưng lại thiếu đảm bảo được chất lượng của sản phẩm và năng lực của con người. Nếu chúng ta không xây dựng một mô hình quản trị an toàn thang máy, đào tạo nhân lực toàn diện và nhiều doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh theo hướng “ăn xổi ở thì” sẽ dẫn tới những nguy cơ khó kiểm soát, mất an toàn nghiêm trọng trong dài hạn”, Tổng Thư ký VNEA nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Huy Tiến, Tổng Thư ký Hiệp hội Thang máy Việt Nam
Ông Nguyễn Huy Tiến chỉ rõ, mặc dù đã có hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn và chế tài đầy đủ, nhưng việc quản lý và thực thi vẫn còn nhiều bất cập. Vẫn tồn tại những thang máy không hợp quy, không thể kiểm định được quảng cáo tràn lan trên các phương tiện thông tin đại chúng, thậm chí những thang máy này còn được lắp đặt và sử dụng.
Không ít doanh nghiệp thang máy tập trung gia tăng về số lượng để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của thị trường, sẵn sàng cung cấp và sử dụng các sản phẩm, linh kiện trôi nổi, kém chất lượng,… bỏ qua các vấn đề liên quan tới tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm soát an toàn.
Sự phát triển nhanh chóng của ngành cũng đòi hỏi một lực lượng lao động có tay nghề cao, hiểu biết sâu về kỹ thuật và tuân thủ nghiêm ngặt các quy chuẩn, tiêu chuẩn an toàn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nguồn nhân lực hiện tại vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thiếu các chương trình đào tạo bài bản và chứng chỉ chuyên môn nghề nghiệp đạt chuẩn.
“Một kỹ thuật viên thang máy không đạt tiêu chuẩn có thể không phát hiện ra các vấn đề ở giai đoạn đầu, điều này có thể dẫn đến các vấn đề lớn hơn trong tương lai”, ông Nguyễn Huy Tiến nhấn mạnh và nêu rõ các vụ tai nạn thang máy nghiêm trọng dẫn tới thương vong trong thời gian qua là minh chứng rõ ràng nhất.
Sự cố thang máy tại HH2C Linh Đàm thàng 8/2024 do nhân viên kỹ thuật công ty đã sơ ý bấm vào nút sự cố cứu hỏa cấp 2 của thang máy, khiến cabin di chuyển dù cửa thang chưa đóng kín, suýt gây ra tai nạn kẹp người nghiêm trọng.
Bài học từ Ấn Độ là một ví dụ điển hình cho những hậu quả nghiêm trọng của việc thiếu kiểm soát chất lượng và an toàn thang máy. Ấn Độ là thị trường thang máy lớn thứ hai trên thế giới, dù vậy an toàn thang máy luôn là vấn đề đáng lo ngại, chỉ tính riêng tại khu vực đô thị Mumbai – nơi có hơn 100.000 thang máy đang hoạt động (tính đến hết năm 2022) đã có 34 trường hợp tử vong và 34 trường hợp bị thương do tai nạn thang máy trong vòng 8 năm từ 2015 đến hết 2023.
Thành phố Mumbai có hơn 4.000 tòa nhà cao tầng đang hoạt động và an toàn thang máy đang là vấn đề lo ngại tại đây
Vấn đề an toàn thang máy tại quốc gia đông dân nhất thế giới cũng đã được phản ánh nhiều lần. Nổi cộm là việc phần lớn các doanh nghiệp chủ yếu cung cấp thang máy, linh kiện không đảm bảo tiêu chuẩn an toàn.
Nhiều nơi thậm chí còn tân trang các bộ phận thang máy cũ, thêm một số bộ phận mới và lắp đặt thành một hệ thống thang máy mới mà thiếu đi các tính năng an toàn cần thiết. Đồng thời, thực hiện công tác lắp đặt, sửa chữa mà không có chuyên gia kỹ thuật, sử dụng các kỹ thuật viên không được chứng nhận để giảm chi phí,…
Ông Nguyễn Huy Tiến cũng nhấn mạnh về bài học từ Hàn Quốc: “Trước đây, Hàn Quốc cũng từng trải qua giai đoạn phát triển nóng như Việt Nam. Nhưng sau một số vụ tai nạn nghiêm trọng, chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng mô hình quản lý an toàn, nâng cao tiêu chuẩn chất lượng và đầu tư vào đào tạo nhân lực. Chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm này để tránh đi vào vết xe đổ.”
Cụ thể, vào những năm 1980, ngành thang máy Hàn Quốc đạt thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ nhờ vào sự phát triển của công nghệ. Dù vậy, giai đoạn này cũng xảy ra nhiều sự cố, tai nạn thang máy, các vấn đề về chất lượng và hiệu suất đã bị phơi bày, thúc đẩy việc luật hóa công tác quản lý.
Ngay từ năm 1991, Hàn Quốc đã ban hành một bộ Luật riêng để quản lý an toàn, nâng cao chất lượng và phát triển ngành công nghiệp thang máy, có tên là Luật Sản xuất và Quản lý thang máy. Bộ luật này liên tục được sửa đổi để phù hợp theo từng giai đoạn phát triển, tới nay là Luật Quản lý an toàn thang máy.
Song song, Hàn Quốc cũng thành lập cơ quan riêng để giám sát, quản lý các vấn đề an toàn thang máy – Cơ quan An toàn Thang máy Hàn Quốc KoELSA (Korea Elevator Safety Agency). Đặc biệt, bên cạnh xây dựng mô hình quản lý, Hàn Quốc còn thành lập một hệ thống đào tạo và cấp chứng chỉ chuyên nghiệp dành riêng cho ngành thang máy – Đại học Thang máy Hàn Quốc (Korea Lift College).
Hệ thống đào tạo kỹ thuật viên của Hàn Quốc
Chính phủ nước này yêu cầu kỹ thuật viên bảo trì, sửa chữa thang máy phải trải qua các chương trình đào tạo bài bản và đạt chứng chỉ trước khi hành nghề. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng phải tuân thủ quy định về tuyển dụng nhân sự có trình độ chuyên môn.
Nhờ những biện pháp quyết liệt đó, đến nay, người Hàn Quốc tự hào rằng nơi đây không chỉ là một trong những quốc gia có nền công nghiệp thang máy phát triển mà còn sở hữu hệ thống quản lý an toàn thang máy số 1 thế giới.
Thiết nghĩ, đây chính là những giải pháp giúp phát triển nguồn nhân lực thang máy chất lượng cao, từ đó từng bước xây dựng và đảm bảo vấn đề an toàn thang máy tại Việt Nam. Vì vậy, VNEA đã thúc đẩy hợp tác quốc tế trong đào tạo nhân lực thang máy với Đại học Thang máy Hàn Quốc, thông qua dự án Trung tâm Đào tạo và cấp Chứng chỉ Thang máy đầu tiên tại Việt Nam. Trung tâm này sẽ khánh thành và khai giảng khóa học đầu tiên vào ngày 27/3/2025 sắp tới.
“Ngành thang máy Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Sự ra đời của Trung tâm Đào tạo Thang máy và những nỗ lực đưa nghề lắp đặt, bảo trì thang máy vào danh mục nghề bắt buộc có chứng chỉ là những bước đi chiến lược của VNEA, khẳng định cam kết nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và củng cố niềm tin của người tiêu dùng vào ngành”, Tổng Thư ký VNEA nhấn mạnh.
Một số hình ảnh thi công phòng thực hành tại Trung tâm Đào tạo Thang máy của VNEA sắp khánh thành và khai giảng khóa học đầu tiên vào ngày 27/3/2025 sắp tới
Hợp tác chiến lược ngành thang máy Việt Nam – Hàn Quốc: Tại sao không?
Thông báo tuyển sinh đào tạo Kỹ thuật viên thang máy và Quản lý vận hành thang máy
Phương Trang
Thông tin mới cập nhật