TCTM – Nhiều ý kiến cho rằng cần bổ sung cơ chế giám sát độc lập trong đấu thầu, trong đó có sự tham gia của chuyên gia, Hiệp hội ngành nghề và đại diện xã hội, nhằm bảo đảm liêm chính, công bằng và phát hiện bất thường kịp thời.
Đấu thầu được kỳ vọng là một công cụ quan trọng để lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư nhằm ký kết và thực hiện các hợp đồng tư vấn, phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp và đầu tư kinh doanh. Mục tiêu là bảo đảm cạnh tranh công bằng, minh bạch và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Nói cách khác, đây là phương thức giúp triển khai các công trình một cách nhanh chóng, hiệu quả, phục vụ tốt nhất cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy quá trình này vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng. Thậm chí, đấu thầu đang trở thành một điểm nghẽn lớn trong triển khai các dự án. Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã chỉ rõ bốn vấn đề rất nghiêm trọng đang tồn tại trong Luật Đấu thầu hiện hành: làm chậm tiến độ phát triển đất nước, hạ thấp chất lượng công trình, gây lãng phí nguồn lực và làm hư hỏng, mất cán bộ.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng – nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, chia sẻ trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, đây không đơn thuần là những khiếm khuyết về mặt kỹ thuật pháp lý, mà là những điểm nghẽn thực sự của thể chế – cản trở sự vận hành hiệu quả của Nhà nước và sự phát triển của nền kinh tế. Ông cũng chỉ ra những bất cập trong công tác đấu thầu như:
Thứ nhất, quy trình đấu thầu hiện nay quá phức tạp và cứng nhắc, dẫn đến việc trì hoãn triển khai hàng loạt dự án đầu tư công. Từ lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu, đến phê duyệt hồ sơ mời thầu, đánh giá, thẩm định, phê duyệt kết quả… đều trải qua nhiều tầng nấc, mất nhiều tháng, thậm chí hàng năm. Hệ quả là nền kinh tế đánh mất các cơ hội tăng trưởng trong ngắn hạn, và năng suất quốc gia bị suy giảm trong dài hạn.
Mấy tháng mở thầu, mấy tháng chọn thầu, thế thì làm gì còn thời gian để thực thi nữa. Tiền ngân sách thì phải phân bổ trong năm, không được để tiền năm nay tiêu sang năm khác, nên rất khó.
Thứ hai, quy định lấy tiêu chí “giá thấp nhất” làm ưu tiên hàng đầu trong xét thầu đã trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Khi năng lực nhà thầu không tương xứng với quy mô dự án, và chi phí bị cắt giảm tối đa để trúng thầu, thì hệ quả tất yếu là công trình bị xuống cấp, đội vốn, thậm chí phải sửa chữa ngay sau khi hoàn thành. Điều này vừa gây thiệt hại ngân sách, vừa làm tổn hại đến lòng tin của nhân dân.
Công ty xây dựng giỏi thì không được mời thầu, bị gạt ra ngoài. Còn người không có năng lực, không có công nghệ thì lại trúng thầu vì chào giá thấp. Sau đó lại bán thầu lòng vòng. Công trình xuống cấp, chất lượng thấp.
Thứ ba, tình trạng hủy thầu, đấu thầu lại, hoặc nhà thầu bỏ dở giữa chừng đang trở nên phổ biến, gây lãng phí cả về thời gian, nhân lực và chi phí xã hội. Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, chỉ riêng năm 2023, có hàng nghìn gói thầu không thể triển khai đúng tiến độ, làm chậm chuỗi cung ứng và ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực liên quan.
Thứ tư, không ít cán bộ, kể cả những người có trách nhiệm và thiện chí, đã bị xử lý kỷ luật hoặc truy tố vì những sai phạm trong quá trình đấu thầu. Một phần vì quy định chưa rõ ràng, thường xuyên thay đổi; một phần vì áp lực hoàn thành nhiệm vụ trong khi thiếu công cụ pháp lý linh hoạt. Kết quả là xuất hiện tâm lý né tránh, sợ ký, sợ chịu trách nhiệm – gây ra tình trạng “đóng băng hành động” trong hệ thống công quyền.
Thứ năm, Luật Đấu thầu chưa phân biệt rõ giữa các lĩnh vực có tính chất đặc thù cao như y tế, quốc phòng, khoa học – công nghệ. Việc áp dụng cùng một quy trình cứng nhắc cho mọi loại hình dự án khiến các ngành này không thể ứng phó nhanh khi có tình huống khẩn cấp hoặc nhu cầu đặc thù. Đặc biệt, sau đại dịch COVID-19, tình trạng thiếu thuốc và vật tư y tế tại nhiều bệnh viện đã cho thấy rõ sự lúng túng và bế tắc của hệ thống đấu thầu hiện hành. Chúng ta tự trói chúng ta, tự làm khổ chúng ta.
Thứ sáu, Luật hiện chưa có cơ chế đầy đủ để đánh giá hiệu quả thực hiện thực tế của các nhà thầu sau khi trúng thầu. Không có hệ thống xếp hạng nhà thầu, không có dữ liệu cập nhật, không có chế tài rõ ràng với các đơn vị thi công kém chất lượng. Điều này dẫn đến thực trạng có nhà thầu yếu vẫn tiếp tục trúng thầu ở các dự án khác, tạo ra vòng luẩn quẩn của sự kém hiệu quả và lãng phí.
Thứ bảy, cơ chế giám sát xã hội đối với đấu thầu còn rất hạn chế. Việc kiểm tra, thanh tra vẫn mang tính nội bộ, thiếu vai trò của tổ chức độc lập, hiệp hội nghề nghiệp, báo chí và người dân. Trong khi đó, một số vụ tiêu cực lớn chỉ bị phát hiện khi đã gây hậu quả nghiêm trọng. Nếu có cơ chế cảnh báo sớm và giám sát độc lập từ ban đầu, hệ thống đấu thầu đã có thể tự điều chỉnh sớm hơn.
Từ những bất cập lớn trong công tác đấu thầu, nhiều ý kiến đề xuất của đại biểu Quốc hội trong phiên thảo luận tại tổ chiều 17/5 cho rằng, cần siết chặt các quy định liên quan đến tiêu chí kỹ thuật, năng lực nhà thầu, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong công tác đấu thầu, bảo đảm công khai, minh bạch toàn bộ quy trình. Bên cạnh đó, cần rà soát các quy định còn bất cập để loại bỏ rào cản phi thị trường, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong nước tiếp cận các gói thầu công.
Các đại biểu cũng đề xuất bổ sung cơ chế giám sát độc lập quá trình lựa chọn nhà thầu và tăng chế tài xử lý vi phạm trong đấu thầu, nhất là với các hành vi gian lận, thông thầu, cố tình gây khó khăn cho nhà thầu cạnh tranh bình đẳng.
Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, cải cách Luật Đấu thầu không còn là một lựa chọn chính sách, mà là một nhu cầu cấp bách của cải cách thể chế. Dựa trên những nguyên tắc đã được thực tiễn quốc tế chứng minh là hiệu quả, ông cũng đề xuất nhiều giải pháp như: Chuyển từ tiêu chí “giá thấp nhất” sang mô hình “giá trị tốt nhất” (value for money), đánh giá tổng thể hồ sơ dự thầu dựa trên chất lượng, tiến độ, chi phí vòng đời và hiệu quả kinh tế – xã hội.
Value for money (VfM) hay giá trị đồng tiền đầu tư là nguyên tắc đánh giá mức độ tổ chức đạt được sự cân đối tối ưu giữa ba yếu tố: tiết kiệm (economy), hiệu suất (efficiency) và hiệu quả (effectiveness) trong việc sử dụng nguồn lực để tạo ra giá trị thực tế.
Ở nhiều nước, chính phủ sử dụng phương pháp này để đưa ra quyết định đầu tư công. Các quyết định này rất đa dạng, từ chọn dự án mới, giải pháp kỹ thuật tốt nhất; cách thực hiện dự án hiệu quả nhất; hay lựa chọn giữa các hồ sơ dự thầu đối tác công tư PPP cho một dự án cụ thể
Bên cạnh đó, phân cấp mạnh mẽ hơn cho các chủ đầu tư, song song với đó là cơ chế hậu kiểm thông minh, chấm điểm tín nhiệm và đánh giá trách nhiệm theo kết quả cuối cùng và hiệu quả đầu tư của dự án.
Ngoài ra, cần bổ sung khung pháp lý linh hoạt và thiết kế quy trình đấu thầu đặc thù đối với các lĩnh vực nhạy cảm hoặc cấp bách, có quy mô lớn và rủi ro cao, nhưng luôn kèm cơ chế giám sát công khai và chế tài rõ ràng.
TS Nguyễn Sĩ Dũng cũng cho rằng cần phải thiết lập Hội đồng giám sát đấu thầu độc lập, có sự tham gia của chuyên gia, hiệp hội ngành nghề và đại diện xã hội, nhằm bảo đảm liêm chính, công bằng và phát hiện bất thường ngay từ đầu.
Giám sát đấu thầu độc lập cũng là hình thức được các tổ chức như ADB hay Worldbank áp dụng trong đấu thầu để đảm bảo tính minh bạch, công bằng và hiệu quả trong các quy trình mua sắm và đấu thầu của họ. Cụ thể, tại Worldbank, để giám sát quy trình đấu thầu, một bên thứ ba độc lập – Đơn vị chứng thực (Probity Assurance Provider) sẽ được lựa chọn để cung cấp dịch vụ chuyên gia chuyên giám sát quy trình mua sắm, đấu thầu nhằm đảm bảo tính trung thực.
Một yếu tố then chốt của tính độc lập là sự khách quan, có nghĩa là “không bị thiên vị và không bị ảnh hưởng bởi các tác động hoặc lợi ích khác làm tổn hại đến phán đoán chuyên môn”. Các yêu cầu về trình độ chuyên môn cụ thể sẽ được quy định cụ định cho từng trường hợp cụ thể.
Theo khoản 1 Điều 123 Nghị định 24/2024/NĐ-CP, thẩm quyền giám sát hoạt động đấu thầu được quy định rõ:
a) Đối với dự án mà Thủ tướng Chính phủ là người có thẩm quyền, căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án, gói thầu, Thủ tướng Chính phủ quyết định cơ quan, đơn vị chủ trì, tổ chức việc giám sát khi cần thiết;
b) Người có thẩm quyền giao cá nhân hoặc đơn vị trực thuộc có chuyên môn về đấu thầu độc lập với chủ đầu tư, bên mời thầu, tổ chuyên gia thực hiện việc giám sát hoạt động đấu thầu đối với gói thầu thuộc dự án, dự toán mua sắm trong phạm vi quản lý của mình khi cần thiết.
Kết quả khảo sát của VCCI năm 2022 cũng cho thấy, đối với vấn đề giám sát hoạt động đấu thầu, có hơn 57% bên mời thầu cho rằng cần thiết phải có tổ chức xã hội giám sát trong hoạt động đấu thầu, để đảm bảo tính minh bạch của hoạt động này, đặc biệt ở giai đoạn “tổ chức lựa chọn nhà thầu”. Tổ chức giám sát xã hội có thể là hiệp hội doanh nghiệp, cơ quan báo chí, các cơ quan đại diện cho nhóm yếu thế…
Nhận thấy, việc phát huy vai trò của các chuyên gia, Hiệp hội ngành nghề… trong giám sát đấu thầu là một yếu tố then chốt để nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng của các hoạt động mua sắm công. Với kiến thức chuyên môn sâu rộng về lĩnh vực hoạt động, khả năng đại diện cho lợi ích chung của cộng đồng doanh nghiệp và tính độc lập, các hiệp hội có tiềm năng lớn để trở thành một lực lượng giám sát hiệu quả.
Hoàng Quân
Thông tin mới cập nhật