TCTM – Trước những gánh nặng chi phí, thời gian và nguy cơ “tắc nghẽn” do quy định mới về thử nghiệm thang máy, các doanh nghiệp đã đồng lòng đưa ra hàng loạt đề xuất thiết thực, mong muốn cơ quan quản lý nhà nước lắng nghe và tháo gỡ kịp thời.
Thông tư 13/2024/TT-BLĐTBXH (sau đây gọi là Thông tư 13) ban hành ngày 5/12/2024, có hiệu lực từ ngày 1/2/2025 đã chính thức bãi bỏ Điều 6 của Thông tư 26/2018/TT-BLĐTBXH – quy định cho phép “thừa nhận, sử dụng kết quả thử nghiệm của phòng thử nghiệm tại nước ngoài”.
Điều này có nghĩa là mọi thiết bị, dù đã được thử nghiệm và cấp chứng nhận tại các thị trường khó tính trên thế giới như châu Âu, vẫn phải thử nghiệm lại tại Việt Nam, cụ thể là tại phòng thử nghiệm duy nhất hiện có của Vinacontrol ở Hà Nội.
Tại buổi thảo luận, lấy ý kiến về vấn đề trên do Hiệp hội Thang máy Việt Nam tổ chức chiều 9/6/2025, hàng chục đại diện doanh nghiệp thang máy đã bày tỏ lo ngại sâu sắc khi chi phí tuân thủ tăng cao, gánh nặng về tài chính, thời gian hợp quy kéo dài đang đè nặng doanh nghiệp, gây ảnh hưởng nghiệm trong tới tiến độ thông quan, bàn giao sản phẩm.
Toàn cảnh buổi họp
Đề xuất tiếp tục công nhận kết quả quốc tế và linh hoạt trong thử nghiệm nội địa
Một trong những kiến nghị mạnh mẽ nhất từ cộng đồng doanh nghiệp là tiếp tục công nhận kết quả thử nghiệm từ các phòng thí nghiệm nước ngoài, đặc biệt là từ những quốc gia có nền công nghệ tiên tiến và tiêu chuẩn chất lượng cao hơn Việt Nam.
Ông Nguyễn Hồng Thái, Đại diện Công ty TK Elevator Việt Nam, đề nghị cơ quan chức năng tiếp tục công nhận Điều 6 của Thông tư 26. Ông lập luận rằng, nội dung sửa đổi theo Thông tư 13 sẽ làm tăng chi phí lớn cho người sử dụng.
“Nếu áp dụng Thông tư 13, sẽ phải mất thời gian bao lâu một phòng thử nghiệm duy nhất của Công ty Vinacontrol thử nghiệm xong cả hàng trăm nghìn thang máy đang lắp đặt và đưa vào sử dụng trong một năm?”, ông Thái thắc mắc về khả năng đáp ứng của Vinacontrol.
Ông cũng nhấn mạnh các hãng nước ngoài vẫn công nhận thử nghiệm của nhau nếu sản phẩm cùng đáp ứng, tuân thủ theo một tiêu chuẩn, ví dụ như EN-81.
Ông Ngô Hồ Á – Đại diện Công ty CP Kiểm định Kỹ thuật, An toàn và Tư vấn Xây dựng – INCOSAF, khẳng định: “Phòng thử nghiệm duy nhất Việt Nam hiện có là của Vinacontrol.”
Tương tự, bà Phạm Thị Hà Tĩnh, đại diện Mitsubishi Việt Nam, bày tỏ sự khó hiểu: “Phòng thử nghiệm nước ngoài đã đạt những tiêu chí về phòng thử nghiệm như ISO 17025 và thực hiện thử nghiệm rồi. Việc thử nghiệm lại ở Việt Nam rõ ràng đang gây phát sinh chi phí và lãng phí cho doanh nghiệp.” Bà Tĩnh cho rằng các phòng thử nghiệm quốc tế đều phải đạt các tiêu chí nghiêm ngặt, do đó, việc thử nghiệm lại là không cần thiết.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, đại diện Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Thuận Anh, chia sẻ công ty bà nhập khẩu thiết bị từ châu Âu có chứng nhận CE rất khắt khe. “Tại thị trường châu Âu, sản phẩm đã được cấp giấy chứng nhận CE thì được phép lưu hành mà không cần hợp quy hay thử nghiệm lại.” Bà Lan thắc mắc về tính cần thiết và hiệu quả của việc thử nghiệm lại tại Việt Nam khi các sản phẩm đã đạt chuẩn cao.
Cần thử nghiệm dựa trên model, quy định rõ ràng về hiệu lực thử nghiệm
Bên cạnh việc công nhận kết quả quốc tế, nhiều doanh nghiệp cũng đề xuất cần có sự linh hoạt hơn trong quy định thử nghiệm nội địa, đặc biệt về thời gian hiệu lực của kết quả.
Ông Phong – Đại diện Công ty Tư vấn và Dịch vụ Kỹ thuật Quốc tế, chỉ ra rằng giá trị của một thử nghiệm hiện nay rất ngắn, áp dụng theo từng lô hàng, sản phẩm. Điều này khiến doanh nghiệp phải lặp đi lặp lại quy trình tốn kém cho từng lô hàng, dù là cùng một loại sản phẩm.
Đại diện Công ty Tư vấn và Dịch vụ Kỹ thuật Quốc tế cho rằng cần đưa ra quy định thời gian công nhận kết quả thử nghiệm cụ thể và lâu dài hơn, tương tự như các chứng nhận quốc tế có giá trị nhiều năm. Ngoài ra, đề nghị Cục cho phép công nhận kết quả thử nghiệm các quốc gia có điều kiện kinh tế kỹ thuật tốt hơn Việt Nam và lập danh sách các thiết bị đã được thử nghiệm, kiểm tra đánh giá để không phải tái kiểm tra giữa các đơn vị dù cùng một loại thiết bị, cùng một model thang.
Tương tự, nhiều doanh nghiệp cũng cho rằng thay vì thử nghiệm hàng loạt theo từng lô sản phẩm nhập về, cần phải có cách tiếp cận khoa học hơn là thử nghiệm dựa trên model, bản vẽ kỹ thuật, để vẫn đảm bảo kiểm tra thử nghiệm an toàn mà không làm tăng gánh nặng chi phí, thời gian và thủ tục cho doanh nghiệp, gây khó khăn cho người tiêu dùng.
Tăng cường kiểm tra, giám sát và hậu kiểm
Tại cuộc họp, nhiều doanh nghiệp đã đặt câu hỏi về mục đích thực sự của Thông tư 13: Liệu thông tư ra đời nhằm kiểm soát hàng giả, hàng nhái, hay do lo ngại về khả năng thử nghiệm của nước ngoài?
Ông Nguyễn Hồng Thái, Đại diện Công ty TK Elevator Việt Nam, đề xuất: “Nếu mục đích của thông tư này là kiểm soát hàng giả, hàng nhái, chúng ta cần có hướng kiểm soát khác, chẳng hạn như siết chặt công tác hậu kiểm tại công trình.” Việc này sẽ tập trung vào chất lượng sản phẩm khi đã lắp đặt và vận hành, thay vì làm gia tăng chi phí tuân thủ của doanh nghiệp.
Nhiều ý kiến tại cuộc họp cũng lo ngại rằng, nếu áp dụng quy định mới yêu cầu thử nghiệm trong nước, các cơ quan quản lý sẽ chỉ tập trung vào kiểm soát thủ tục công bố hợp quy và các yêu cầu tiền kiểm trước khi sản phẩm đưa ra thị trường.
Điều này có thể dẫn đến việc lơ là các biện pháp hậu kiểm, khiến người tiêu dùng dễ bị đánh lừa bởi những quảng cáo sai sự thật về chất lượng và an toàn sản phẩm đã được công nhận bởi bộ nọ, ngành kia. Vụ việc sữa giả kém chất lượng vừa qua là một bài học điển hình về sự lơ là trong hậu kiểm.
Chủ tịch Hiệp hội Thang máy Việt Nam, ông Nguyễn Hải Đức, khẳng định Hiệp hội sẽ tổng hợp các kiến nghị xây dựng, góp ý của doanh nghiệp để đề xuất các giải pháp tới cơ quan quản lý nhà nước, hướng tới thị trường thang máy an toàn, hiệu quả và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Nhận thấy những khó khăn chung, ông Nguyễn Hải Đức, Chủ tịch Hiệp hội Thang máy Việt Nam, ghi nhận tất cả những ý kiến đóng góp mang tính xây dựng từ các doanh nghiệp. Ông khẳng định Hiệp hội sẽ phát huy vai trò cầu nối, tập hợp các nội dung này để làm việc với các cơ quan quản lý nhà nước. Mục tiêu là tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp, hướng tới một thị trường thang máy Việt Nam an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
Với sự đồng lòng và các đề xuất cụ thể từ cộng đồng doanh nghiệp, hy vọng các cơ quan chức năng sẽ sớm có những điều chỉnh phù hợp để ngành thang máy Việt Nam vượt qua giai đoạn khó khăn này, đảm bảo cả an toàn kỹ thuật lẫn sự phát triển bền vững của thị trường.
Thông tin mới cập nhật