TCTM – Về đến Việt Nam, người đầu tiên tôi muốn nhắc đến là ông nội, một cựu giảng viên Đại học Sư phạm Vinh. Nói đến ông, tôi thường nhớ đến Khu nhà tầng Quang Trung (Vinh)- “đô thị không thang máy”, nơi ông bà tôi đã nhiều năm gắn bó.
Ông nội tôi kể, Hiệp định Paris về Việt Nam được 4 bên ký kết vào ngày 27/1/1973. Ngay sau đó, các nước trong hệ thống XHCN (cũ) họp lại phân chia nhau giúp đỡ Việt Nam xây dựng lại đất nước như: Liên Xô nhận giúp xây dựng lại Hà Nội, Trung Quốc nhận giúp đỡ xây dựng Thái Nguyên và Việt Trì, Rumania nhận giúp xây dựng Nam Định, Triều Tiên nhận giúp xây dựng Hà Bắc, Ba Lan nhận giúp xây dựng Hải Phòng, Tiệp Khắc nhận giúp xây dựng Thanh Hóa.
Ngày 5/5/1973, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa gửi công hàm cho Cộng hòa Dân chủ Đức chính thức đề nghị bạn giúp đỡ xây dựng lại thành phố Vinh. Ngày 22/5/1973, Hội đồng Bộ trưởng CHDC Đức quyết định gửi một đoàn cán bộ Bộ Xây dựng sang Việt Nam khảo sát tình hình. Ngày 22/10/1973, tại Berlin Hiệp định viện trợ không hoàn lại giữa Cộng hòa Dân chủ Đức giúp đỡ Việt Nam xây dựng lại thành phố Vinh được ký kết .
Phía Đức đã cử Tiến sĩ Karlheinz Schlesier và Kiến trúc sư Hans Grotewohl sang Việt Nam lập quy hoạch tổng thể Vinh, trong đó Khu nhà cao tầng Quang Trung được coi là điểm nhấn. Trên diện tích 30ha, các chuyên gia Đức đã thiết kế, quy hoạch khép kín một khu đô thị kiểu mẫu gồm 36 tòa nhà 5 tầng, tổng số 2.480 căn hộ, tạo chỗ ở cho 15.600 người, có đủ vườn hoa, trường học, nhà trẻ mẫu giáo, siêu thị.
Ông tôi, và nhà A3- Khu nhà tầng Quang Trung (Vinh).
Do khó khăn của phía Việt Nam, chủ yếu là không sản xuất và cung ứng kịp các loại vật liệu xây dựng cơ bản nên dù hiệp định phải gia hạn thêm 2 năm, nhưng khi kết thúc hiệp định (31/12/1980) khu nhà ở Quang Trung mới xây dựng được 22 ngôi nhà 5 tầng trên diện tích 14,4ha kèm theo hệ thống công trình phúc lợi: Trường học, nhà trẻ, mẫu giáo, trung tâm thương mại,… các công trình hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống đường nội bộ, hệ thống cấp điện, cấp thoát nước, hệ thống cây xanh và sân chơi.
Vinh, trong đó tiêu biểu là Khu nhà tầng Quang Trung là một trong những đô thị hiện đại đầu tiên của miền Bắc, nhưng nó không được lắp thang máy. Phải đến 1990, khách sạn Kim Liên nằm trên đường Quang Trung mới được lắm chiếc thang máy đầu tiên của Vinh. Chiếc thang này, vốn ban đầu được nhập về sử dụng cho sân bay Gia Lâm
Ông nội tôi kể, Vinh là đô thị đầu tiên của miền Bắc được quy hoạch bài bản, các phòng ở được khép kín WC (các đô thị khác dùng chung WC, bếp). Nhưng Khu nhà tầng Quang Trung khi đó vẫn không có bể nước trên sân thượng, hệ thống thoát nước thải lộ thiên và tất nhiên…không có thang máy. Thực tình khi đó, nếu có thang máy cũng không thể sử dụng vì Vinh thường xuyên bị cúp điện và đa phần người dân hàng ngày phải thay nhau đi gánh nước sạch bằng cách leo cầu thang bộ để phục vụ sinh hoạt gia đình.
Khu nhà tầng Quang Trung
Không nói ra nhưng ai cũng biết, đây là nỗ lực lớn của Đức dành cho quê hương của Hồ Chủ tịch, bởi phần lớn ngoài Hà Nội thì các đô thị khác tại miền Bắc đều xây dở dang. Khi đó, phải là “công dân tiêu biểu” của Vinh mới có tiêu chuẩn lên sinh sống tại Khu nhà tầng Quang Trung. Ông nội tôi, PGS.TS Nguyễn Quý Dy và nhiều cô, chú, bác khi đó đang giảng dạy Đại học Sư phạm Vinh chính là những công dân đầu tiên của khu nhà tầng. Năm 1976, ông bà nội tôi lên sống tại Phòng 30 Nhà A3, cùng tầng 4 với nhà văn Bá Dũng, PGS Lê Bá Hán, PGS Hoàng Kỳ. Khó nói hết niềm vui của ông bà tôi, 2 giảng viên đại học khi đó được nhà nước cấp miễn phí căn phòng 28m2, tầng 4…đây chính là địa điểm cao nhất của TP Vinh, có thể phóng tầm mắt bao quát tới tần núi Quyết (Bến Thủy). Khát vọng của nhà thơ Thạch Quỳ “Tây còn đây, thì ở Vinh còn gạch vụn/ Hết Tây rồi, gạch vụn hóa nhà cao” (Gạch vụn thành Vinh-Thạch Quỳ) đã thành hiện thực.
Nay đứa trẻ lên 3 ở Hà Nội đã được tận hưởng những tiện lợi của thang máy thì cách đây hơn 40 năm, thế hệ cha ông chúng ta, thang máy là “giấc mơ giữa ban ngày”. Khi đó, nhà nhiều trí thức lớn của xứ Nghệ sinh sống ở Khu nhà tầng Quang Trung, nhạc sĩ An Thuyên, nhà thơ Xuân Hoài, Minh Huệ, các giảng viên đại học tên tuổi Trần Văn Hạo, Trần Đình Viện, Nguyễn Quý Dy (ông nội tôi), Hoàng Kỳ, Hoàng Văn Lân…đều …ngày ngày leo thang bộ.
Bà nội tôi kể, hàng ngày, các PGS.TS đều phải vài lần vất vả vác xe đạp lên xuống các tầng cao, ngoài ra đôi vai gầy của các trí thức, không quen làm việc nặng nhọc phải cõng đủ thứ, nào gạo, mụn cưa (để nấu ăn) và khổ nhất là gánh nước sạch. Đêm khuya, không điện, không kể là PGS.TS hay các nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ…các bác, các chú đều phải dò dẫm từng bước, từng bước chân (tránh trượt ngã) để cõng từng thùng nước từ vòi nước công cộng dưới đất lên nhà.
Mỗi khi nhắc lại kỷ niệm nhà tầng Quang Trung, ông nội tôi chia sẻ, khi đó may ra chỉ có nhà thơ Minh Huệ (1927-2003), tác giả của bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” đêm đêm được ngon giấc, vì nhà ở tầng 1, không phải lo toan chuyện nước nôi. Khi đó, không chỉ các giảng viên Đại học Sư phạm Vinh, những người đã vài lần đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài đã từng được đi thang máy mà đa phần người dân Quang Trung đều có một mong ước, thế hệ con cháu sẽ được ở trên những ngôi nhà cao tầng có thang máy.
Hơn ai hết, những người đã và từng sinh sống ở Khu nhà tầng Quang Trung đều thấu hiểu sự vất vả khi phải ngày vài bận leo lên, tụt xuống bằng thang bộ. Đồ đạc lên, xuống đều phải đè nặng lên đôi vai, Ba tôi khi ấy ngoài giờ đi học cũng phải giúp bố, mẹ gánh nước, mang vác đồ nặng từ mặt đất lên tầng 4. Hơn ai hết, những công dân Quang Trung của thành Vinh ngày ấy là những người thấu hiểu giá trị của thang máy trong cuộc sống đời thường, câu chuyện tôi chép lại đơn thuần là việc nhắc lại một kỷ niệm về lịch sử quê cha, đất mẹ.
Hơn ai hết, những công dân Quang Trung của thành Vinh ngày ấy là những người thấu hiểu giá trị của thang máy trong cuộc sống đời thường. Nếu có thang máy, những đứa trẻ của nhà tầng Quang Trung chúng tôi ngày ấy sẽ bớt đi những vất vả mang, vác vật năng leo thang bộ, nhiều khi muốn tức thở.
Thảo Chi
Thông tin mới cập nhật